CHATTHUGIAN.MOBIE.IN
kính chào qúy khách

TRANG CHỦ
Truyện Teen   Ngôn Tình   Đam Mỹ   Bách Hợp   Tử Vi   Truyện Tranh  
Facebook  Xổ Số  Dịch  Tải Game  Báo  Tiền Ảo Bitcoin 

 Hậu Chí Phèo


Phan_6

Núi Ngọc, núi Rồng là một địa danh của làng Vũ Đại. Lách mình qua hai khe núi là dòng sông Ngựa. Chéo qua hai kẽ núi là cầu Rồng, một tuyến giao thông huyết quản, người, xe qua lại suốt ngày đêm. Sông Ngựa chảy xiết như ngựa phi. Nếu không có cầu, người có thể bơi qua, nhưng xe pháo thì không.

Chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ tràn qua khắp làng. Cầu Rồng được Mỹ chọn là điểm đánh phá, hủy diệt đầu tiên. Mấy trận địa pháo bảo vệ cầu đã bị hủy diệt. Và chúng đã trả giá bằng hơn sáu mươi máy bay phản lực bị bộ đội, dân quân ta bắn hạ.

Khi chiến tranh dội quả bom đầu tiên xuống cầu, thì Cúc đang độ xuân thì. Dù phải thử thách với máu lửa, với túi bụi công việc đồng quê, sức vóc cô vẫn tràn ra khắp bắp chân, bắp tay và tấm thân tròn lẳn. Làng Vũ Đại được lệnh sơ tán người. Cúc kiên quyết xin ở lại chiến đấu. Cúc trở thành dân quân trực chiến và tham gia chiến đấu bên sông Ngựa.

Chiến tranh ngày một ác liệt, thử thách cũng ngày một quyết liệt hơn, thì gan dạ, dũng cảm của Cúc như hoa hướng dương ngày càng thêm lộ rõ dưới ánh sáng mặt trời. Làng Vũ Đại kính trọng cô. Bộ đội yêu quý cô. Thế mà họ Chí làng Vũ Đại lại không bằng lòng với chuyện này. Cúc không thuộc họ nhà Chí. Họ Chí có tiếng là vũ dũng. Ấy mà tại sao người dũng cảm, gan dạ có tiếng lại không phải là người họ Chí nhà lão? Khi Cúc được giới thiệu đi học lớp đối tượng Đảng thì tay Chí đã tìm lý do ngăn cản. Lý lịch nhà Cúc có vấn đề. Họ nhà Cúc có người đi về phía Nam. Cụ Chí nói: “Dòng họ với nhau thì có liên quan. Biết đâu, có ngày, chính người nhà cô Cúc lại dẫn quân về phá hoại cách mạng. Ai dám bảo đảm, cô Cúc vì cách mạng mà tố cáo người nhà làm giặc?”.

Cũng may, bên chân cầu Rồng, núi Ngọc bộ đội bảo vệ cầu có nhiều. Ảnh hưởng của bộ đội đối với Đảng làng Vũ Đại rất lớn. Bởi vậy, Cúc vẫn cứ được đi học đối tượng Đảng. Sau đó, tại trận địa, cả bộ đội, cả làng Vũ Đại kết nạp cô vào Đảng. Tôi không thể kể đầy đủ những ngày cô dân quân Cúc dũng cảm cùng bộ đội chiến đấu bảo vệ cầu như thế nào? Chỉ có thể ghi chép đôi dòng sơ lược qua lời kể của những người sống cùng thời rằng: Cúc là một phụ nữ mẫu mực, giỏi việc nước, đảm việc nhà, gan dạ khó ai bì kịp. Sáng tinh mơ đã thấy Cúc, có khi một mình, với cây nứa trên tay, thoăn thoắt dập bèo hoa dâu. Đến trưa lại thấy Cúc trong đội quân chống hạn, hai tay quai gầu giai, nhịp nhàng, bền bỉ. Tối dưới ánh trăng, Cúc là người có mặt sớm ở chân núi Rồng, núi Ngọc chuẩn bị công sự cho ngày chiến đấu tiếp theo.

Trong chiến đấu, Cúc thoăn thoắt như con thoi tải thương, vác đạn. Chính trong một ngày chiến đấu ác liệt, Cúc đã làm nên kỳ tích.

Hôm ấy, cả trăm máy bay quần đảo trên cầu, thi nhau trút bom, bắn đạn xuống sông, xuống cầu. Bắn liên tục, nhiều khẩu pháo trên trận địa hết đạn. Không thể tiếp đạn bằng tàu thuyền, Cúc, dưới mưa bom, bão đạn một mình vác hai hòm đạn nặng gấp hai lần trọng lượng cơ thể cô, băng qua dòng sông tiếp đạn cho pháo cao xạ trên tàu chiến. Noi gương Cúc, nhiều dân quân khác làm theo. Nhờ được tiếp đạn kịp thời, cầu Rồng lần ấy lại trụ được. Thành tích của Cúc đã được cả làng, cả quốc tế biết tới. Cúc trở thành điển hình của tinh thần quyết chiến, quyết thắng giặc Mỹ xâm lược. Cúc được đi báo cáo điển hình ở trong làng và ra cả ngoài quốc tế. Bấy giờ, lẽ ra Cúc có thể sẽ trở thành cán bộ bự, nếu như thời kỳ đó, Cúc ở lại học tập và công tác ở trung ương làng Vũ Đại.

Nhưng lúc này, nhịp điệu chiến đấu bắt đầu ăn vào cô. Bom, đạn và không khí chiến đấu lúc nào cũng ám ảnh tâm trí cô. Cô không thể chịu nổi một chiều Hồ Gươm tơ liễu, óng ánh, nghiêng nghiêng; không chịu đựng nổi sự yên thân, thanh bình.

Tuổi trẻ của cô muốn được giải tỏa trí lực. Ở đâu trí lực được giải tỏa hơn chiến trận, phải đối mặt với cái sống, cái chết từng giây, từng giờ? Hơn nữa, chiến trận là nơi mà tình yêu của Cúc với một pháo thủ đang độ nở. Cúc trở lại sống và chiến đấu ở cầu Rồng.

Tình yêu của Cúc với anh pháo thủ có mê ly không? Dân làng Vũ Đại ít người dám kể. Họ sợ hồn tình thiêng hơn hồn đời. Bởi thế, họ cứ kể dấn vào lịch sử làng Vũ Đại thời chiến tranh.

Kỳ Đại hội Đảng làng Vũ Đại trong chiến tranh. Phe bộ đội muốn làng Vũ Đại trở thành một điển hình đánh Mỹ tươi trẻ; muốn đưa cô Cúc lên làm bí thư thay một người trong dòng họ Chí đang giữ chức này. Phe cụ Chí và cụ Chí không tán thành. Họ muốn giữ người của họ cụ Chí lên thay. Chí họ Chí, còn Cúc lại họ Võ. Từ xưa, hai họ đã có hiềm khích lẫn nhau. Hồi năm sáu mươi, họ Chí đã kéo sang phá đổ nhà thờ họ Võ. Họ Võ đến bây giờ vẫn còn ấm ức. Con Cúc họ Võ giữ chức vụ lớn, cụ Chí, phe cụ Chí sợ bị trả thù.

Phe Chí ra lệnh cho cụ Chí phải tìm người thay thế. Cụ Chí chọn Cường. Nhưng Cường đã nói với cụ Chí:

– Thưa Cụ, nếu bầu mà không có chỉ đạo chặt chẽ thế nào cháu cũng trượt. Con Cúc được bộ đội che chở, nâng đỡ, lại được làng yêu quý, phong trào chú ý, báo chí thỉnh thoảng lại viết bài ca ngợi; cái lý lịch có người đi về phía Nam của nhà nó có đáng trọng gì. Mà thực ra, nó có biết mặt người nhà đi Nam của nhà nó đâu.

Cụ Chí cười lên khà khà:

– Anh sợ đảm nhận chức vụ đó thì gian khổ, vất vả, có thể dễ bị toi mạng vì bom đạn Mỹ,chứ gì? Hèn lắm! Mà ai yêu cầu anh cứ phải lăn xả vào chiến đấu. Cụ anh đây, bom bỏ thì ở trong hầm, hết bom đeo xà cột chạy lên xóm trên, xóm dưới, vẫn được tiếng là dũng cảm. Có ai dám chê cụ Chí nhà anh hèn đâu. Họ Chí nhà ta mới lãnh đạo cách mạng được có một mùa. Anh không thể cắt cụt ngọn con đường cách mạng của họ Chí nhà ta được.

– Nhưng…

– Không có nhưng gì hết. Làng đang trong chiến tranh, phải biết lợi dụng bom đạn mà tiến thân chứ!

Đại hội làng Vũ Đại chưa kịp họp thì bom đánh cầu, đánh làng Vũ Đại lại rộ lên. Một bận, cụ Chí vừa từ trong hầm tránh bom chui ra, đã nghe tiếng la hét ầm ĩ, tiếng bước chân chạy rầm rập dội vào tai. Thấy Cường hớt hải chạy tới, lắp bắp:

– Báo cáo cụ. Trận địa pháo bị trúng bom.

– Có thiệt hại gì không?

– Hình như bị hủy duyệt hoàn toàn.

Cả hai vội vã chạy đến trận địa pháo. Đúng. Một trận địa pháo trúng bom, tan tành cả. Những khẩu pháo bị bật khỏi công sự, cháy đen. Pháo thủ không còn một ai. Tất cả đều tan nát. Có người chỉ còn một búi thịt bầy nhầy. Có người chỉ còn là một cục than cháy xém, bốc khói. Tiếng nhiều người gào thét thảm thiết. Trong số đó, cụ Chí và Cường thấy Cúc. Chí, Cường nhìn nhau, thì thào:

– Người yêu của nó ở đây à?

– Có lẽ? Nó gào khóc mới ghê chứ!

Thực ra, cụ Chí và Cường cũng không thể cầm lòng. Nhưng, trong đau lại có một thỏa mãn nho nhỏ: “Chẳng lẽ con Cúc lúc nào cũng gặp may”. Cả hai cùng tiến lại gần Cúc. Cúc như không biết gì, vẫn vật vã bên một cái xác đã cháy xém. Trong lúc Cúc đang vật vã, bất ngờ cái gương trong túi áo Cúc rơi ra. Đầu cụ Chí chợt lóe lên một ý nghĩ hiểm độc. Cụ Chí tiến nhanh lại gần xác chết, nơi Cúc đang vật vã, như tiện chân, cụ dẫm lên cái gương của Cúc vừa rơi ra.

Sau trận bom khốc hại đó, quân báo về kiểm tra trận địa. Làng Vũ Đại cũng vào đợt học tập: nâng cao cảnh giác, phát giác kẻ thù. Mấy anh quân báo kể chuyện: Bọn gián điệp Mỹ tàng hình bằng nhiều cách. Ở bên trái làng Vũ Đại có đứa giả thành người điên; bên phải làng Vũ Đại có đứa giả làm thợ cắt tóc; ở phía bên làng Vũ Đại có đứa dùng gương, cặp tóc làm mật hiệu, chỉ điểm cho máy bay đến ném bom.

Trong một cuộc họp với dân, một anh quân báo tiện mồm nói ra:

– Làng ta cũng mất trắng mấy trận địa pháo. Có thể có gián điệp lảng vảng quanh đây.

Cụ Chí nói:

– Tôi nghĩ quanh ta có gián điệp. Làng ta tề ngụy ngày xưa nhiều. Thế nào chẳng có đứa liên hệ, liên quan với nhau.

Tuy Cúc không biết mặt, nhưng lại biết trong họ nhà mình có người đi Nam. Cụ Chí nói, làng ta tề, ngụy ngày xưa nhiều, thế nào chẳng có đứa liên hệ, liên quan, hẳn cụ ám chỉ họ nhà mình đây. Sau phát biểu của cụ Chí, Cúc nhận thấy, cả làng đang nhìn dồn vào mình. Cúc tỏ ra lúng túng. Sau đó, cô được bộ đội mời phát biểu về an ninh. Lời cô nói loạc choạc, khó hiểu. Có lẽ cô sợ. Làng Vũ Đại đã bỏ tù nhiều người chỉ vì trong họ có người đi Nam.

Sau cuộc họp, làng Vũ Đại vào kỳ phát động: tố giác. Có người tố: “Một con trâu lạc ngơ ngác, xồng xộc từ núi Ngọc phóng xuống. Trên trán nó dán một lá cờ đỏ sao vàng bằng giấy. Bọn gián điệp dụng ý chê ta: Trong nhà có kẻ gian mà không biết. Ngu như bò”.

Cường bổ sung:

– Đúng rồi. Hôm qua, lúc chập tối, tôi thấy có người đóng giả đàn ông, từ thôn ta, đi vào núi Ngọc. Nó đi vội vã, nghi nghi. Tôi đoán là người làng ta. Tại sao lại đi một mình vào rừng núi trong đêm tối?

Làng Vũ Đại có thể có gián điệp nằm vùng. Thường vụ Đảng ủy Vũ Đại cùng quân báo họp kín mấy tối thì dư luận làng Vũ Đại rộ lên: Cô Cúc làm gián điệp Mỹ, ém gương trên các trận địa pháo, chỉ điểm cho máy bay ném bom. Công an kéo về xác minh. Tang chứng cụ Chí đưa ra rành rành. Kèm theo cái gương, cụ Chí còn đưa ra bức ảnh chụp Cúc đang lăn lóc bên người vừa hy sinh. Cụ Chí giải thích:

– Nhà nó có người đi Nam. Lại có bức ảnh này nữa. Đấy mọi người xem đi… Chẳng phải nó thương xót bộ đội ta đâu. Tóc nó rũ ra, mặt nó tái đi, nó lo sợ chưa tìm ra ám hiệu đấy.

Làng Vũ Đại thêm một phen ngơ ngác nữa. Lo sợ về chết ***c trùm lên. Có người tin Cúc làm gián điệp. Có người không tin. Có người phân vân, lấp lửng:

– Cái máu địa chủ nhà nó có đánh chết cái nết cũng không chừa.

Nghe thế, Cúc sợ run lên. Ngoài hai mươi tuổi, cô còn non trẻ lắm.

Chính quyền có lệnh bắt Cúc… Nhưng khi lệnh tới nhà Cúc, thì Cúc đã biệt tích. Dư luận càng được dịp rộ lên: “Đúng quá. Cháy nhà mới ra mặt chuột”.

Không bắt được Cúc. Lệnh truy nã tìm bắt Cúc ban ra. Làng Vũ Đại lại hồi hộp, chờ xem một cuộc xử án mới.

Là người chứng kiến cảnh Cúc bị bắt, nghe lời kêu than lúc Cúc bị bắt, tôi cũng đợi một phiên tòa xử án Cúc. Nhưng đợi mãi mà vẫn không thấy. Tôi đành đến chùa Q. Ở làng Vũ Đại, nơi Cúc lẩn trốn để tìm căn nguyên. Hỏi người trụ trì chùa về Cúc, nhà sư đưa tôi xem bảng thông báo giờ đã nhàu bẩn: “Võ Thị Cúc, phần tử phản động, đội lốt tăng ni, đã có lệnh truy nã từ mười năm nay, đến nay mới bắt được. Vậy nhà chức trách chính quyền thông báo cho chùa được biết. Mô phật!”.

Nhà sư phân bua thêm: “Nhà sư không biết cô Cúc ở vùng nào, nghe qua giọng thì đoán ra. Vào chùa tu với lý do không rõ ràng, nhưng là người biết giữ phép chùa nghiêm túc. Đạo của chùa là hướng con người thoát tục, đưa tới niềm cực lạc. Chúng tôi không có khuyết điểm. Mô phật!”.

Tôi không tin một người như cô Cúc lại có thể làm gián điệp Mỹ. Bất giác, tôi nhớ người làng Vũ Đại nói: “Chính hắn còn sống đấy. Cứ đến thẳng nhà hắn mà đòi có hơn không? Hãy đến nhà nó mà xem”.

Tôi đến nhà hắn. Dưới mơ màng khói hương, hắn đang quỳ mọp dưới bàn thờ cầu khấn. Mắt hắn mở thao láo nhìn trừng trừng vào làn khói hương. Làng Vũ Đại nói: Mấy mươi năm nay, chưa đêm nào hắn dám nhắm mắt. Hắn sợ. Tôi thấy miệng hắn đang phập phồng như miệng ếch gặp nắng to. Hắn đang thành tâm. Đôi má gầy gò, đen sạm của hắn tái đi. Tấm thân gầy còm của hắn đang vặn vẹo đau khổ như một con rắn độc sắp tới thời kỳ lột xác. Cái mũ cát trắng đội trên đầu hắn đã thâm xì. Dân làng Vũ Đại nói: Nó cũng thỉnh thoảng lang thang đầu đường, xó chợ như một thằng ma xó. Gặp ai là lạ, hay một vật gì là lạ, nó quỳ sụp xuống, bái liền.

Dân làng Vũ Đại than: Sao hắn không chết đi cho hết chuyện? Cho hết tức mắt người làng Vũ Đại. Cho lịch sử làng Vũ Đại chuyển sang trang khác? Các cụ nói: Hắn cần phải sống để trả hết cái nợ đời mà hắn đã gây ra. Chỉ sợ hắn bỗng dưng lăn đùng ra mà chết, lôi thôi to cho làng Vũ Đại chứ lại.

Tôi hỏi hắn:

– Cô Cúc đâu?

Cánh tay đen đủi, loằng ngoằng của hắn yếu ớt chỉ lên bàn thờ đang tỏa khói hương. Bàn thờ cổ nhà hắn ngập mấy tầng tàn hương. Theo tay hắn chỉ, tôi chợt thấy một cái gương tròn. Tang chứng chăng? Lòng tôi chộn rộn. Tôi hỏi hắn mà như quát:

– Cô Cúc đâu?

Hắn lại chỉ tay lên bàn thờ. Tôi trịnh trọng đưa tay cầm chiếc gương xuống. Hắn không dám nhìn vào tay tôi, ú ớ mấy tiếng gì đó, rồi mở rộng miệng ra đớp đớp. Những làn khói hương đen kéo lại, tuồn tuột cuốn vào miệng hắn. Hắn nuốt khói say sưa. Khói hương đen bao vây, quấn quýt bên cằm râu bạc ám khói của hắn.

Tôi chăm chú quan sát gương. Một cái gương tròn ngoại, mang hiệu Phơ-rang-xe. Phía sau gương có khắc năm chữ cái: C.Y.A-K.N. Không thấy có gì đặc biệt.

C.Y.A, lúc nào cũng có thể dịch rằng: Cúc yêu anh. Còn K.N là kỷ niệm. Năm chữ cái C.Y.A-K.N, là: Cúc yêu anh, kỷ niệm. Nhưng thời phải cảnh giác: C.Y.A, dân làng Vũ Đại lại dịch thành: Cơ quan gián điệp Mỹ; còn K.N, thì dịch thành kùng nhau. C.Y.A-K.N là cùng nhau làm gián điệp Mỹ.

Chuyện dài dòng chỉ có thế. Thế mà… Tôi đưa mắt nhìn hắn. Thấy hắn vẫn mê muội. Tôi lẳng lặng đi ra. Tôi mới bước một chân qua bậu cửa, hắn đã chồm lên theo như một thằng điên. Tôi quay lại. Hắn chụp xuống chân tôi, cầu xin:

– Hãy giết tôi đi. Hãy đem gương xuống dòng sông Ngựa trả em.

Hắn bám chặt vào đùi tôi. Tôi đặt tay lên đầu hắn. Đầu hắn lạnh như đồng. Có thể hồn hắn đã lìa khỏi xác. Lời cầu xin của hắn nghe thấy thành tâm thật. Có thể hắn không phải là kẻ có dã tâm ác độc. Nhưng thời đó, con người còn mông muội. Cái gì không cùng ta, khác ta đều là kẻ thù. Bởi vậy mới đẻ ra nhiều oan trái. Mong cho mày được chết đi.

Chợt tôi lại nhớ câu dân làng Vũ Đại nói: Khi nào gương của hắn soi lên dòng sông Vũ Đại không thấy cô Cúc hiện về, thì hắn mới nhắm mắt được, còn không, hắn cứ phải sống. Bởi vậy, vào những ngày nắng đẹp, trời trong hoặc mưa phùn gió bấc, đem gương ấy ra soi trên dòng sông Ngựa cuộn xiết, vẫn thấy người con gái ấy hiện về. Và từ dòng sông, tiếng kêu cứu vẫn vang lên:

– Bác Chí ơi! Bác chết, nỗi oan của con ai giải cho?

– Thương cô Cúc quá, ông nhỉ? – Người kể chuyện sử làng Vũ Đại than thở. Đến tận bây giờ mà vẫn còn tấm tức kêu oan. Kiếp nạn. Đúng, kiếp nạn, chứ không thì là cái gì?

IV. Mộ tổ làng Vũ Đại

Cứ khói hương từ bàn thờ tỏa lan ngào ngạt trong nhà là Chí Lê Cường muốn điên lên, muốn đập phá… muốn hết thảy mọi chuyện đều tung lên, phơi ra ánh sáng mặt trời, dù là ẩm ướt. Da anh vốn đen đúa, lại được hun khói ở chiến trường đánh Mỹ, cơn tức từ ruột gan theo máu chạy lên mạch, biến ra tái tím. Mắt Chí Lê Cường vốn to, cơn tức kéo lên làm mí mắt anh căng ra, đôi con người đồng thau được dịp chồi ra như hai con ốc bươu vàng. Tóc Lê Chí Cường đen nhánh, cơn tức dội lên óc, dựng ngược cả lên, có cảm giác như nghìn mũi kim tủa lên, sắc nhọn…

Hương khói thực tình chỉ ngào ngạt, thơm lựng. Vào ngày giỗ, có mùi của đĩa xôi gạo mới, quyện với mùi thơm của hương, ngửi mà thấy thanh khiết, thanh tao. Mũi Chí Lê Cường chưa bao giờ bị bệnh, và dứt khoát không có triệu chứng viêm xoang, hẳn Chí Lê Cường cũng nhận rõ cái hương vị quyến rũ lòng người này. Nhưng đã trót có đớn đau trong lòng, ăn ớt không biết rằng cay, ăn muối không biết rằng mặn nên lẫn trong mùi hương, Chí Lê Cường còn nhận ra cái mùi tanh tưởi nào đấy, đại để như mùi của chú chuột đồng chết đang độ rữa ra, chẳng hạn.

Không hận thù sao đặng? Đồng Cồn là nơi cụ tổ họ Chí, người đầu tiên khai phá. Giữa đồng Cồn có gò Cồn, là nơi vùi thịt da, xương cốt của cụ tổ nhà anh. Qua biết bao sự thay đổi của lòng người và đất đai, gò Cồn vẫn là nơi thiêng liêng, chưa ai dám san bằng để cấy trồng. Thời nào thì thời, con người không thể sống thiếu tổ tông được. Ấy mà họ Võ Đức ngang nhiên đến xây mộ tổ của nhà hắn lên đó. Sao họ Võ Đức biết tôn trọng tổ tông, còn cái họ Chí nhà mình lại không? Thiếu gì đất mà họ Võ Đức lại xây mộ cụ tổ nhà nó đè lên phần xương thịt của cụ tổ nhà mình? Tổ tông đã bị đè, con cháu không ngóc đầu lên được là điều tất nhiên.

Đúng quá! Óc Chí Lê Cường chợt lóe lên một thực cảnh: Cha ông dạy: “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành”. Cụ tổ họ Chí Lê Cường chết, theo gia phả để lại, do bị ngập ở đồng Cồn vào một ngày giá rét khi vua đi kinh lý qua làng. Đám tang cụ tổ nhà họ Chí không kèn, không trống, không hòm ván và không ai được khóc. Đã thế, nắm xương tàn nằm lại đồng Cồn cũng không được yên thân. Thế thì lấy đâu ra thiêng, ra lành? Họ Chí từ xưa vẫn lấy ngạch võ làm đường tiến thân, nên trong hai cuộc kháng chiến của dân tộc, có bao nhiêu đàn ông trai tráng, họ Chí đều động viên ra mặt trận hết. Bao nhiêu người hy sinh, bao nhiêu bảng vàng danh dự mà tiến thân của con em trong họ, chỉ đến cấp đại úy rồi lục tục về vườn. Họ Võ Đức xưa nay theo dòng văn. Hai cuộc kháng chiến, con em của họ lẩn như trạch, có kẻ còn theo giặc, chỉ lèo tèo dăm ba đứa vào quân ngũ, ấy mà có đứa leo lên đến đại tá. Sao lại đảo ngược quy tắc truyền thống như vậy? Phải chăng, do họ Võ Đức xây mộ đè lên xương thịt họ Chí? Họ thờ mấy chục năm trên đó. Biết đâu cái khí thiêng thượng võ của họ Chí, cái lộc để lại của họ Chí, do họ Võ Đức vừa đè lên, vừa thờ phụng cầu xin đã đi vào họ Võ Đức? Có thể lắm! Mà có thể gì nữa? Cứ nhìn cái thực cảnh cũng thấy quá đủ.

Chí Lê Cường tung chăn, rút bàn tay ra khỏi bàn tay vợ, vùng dậy, anh lần tay xuống gầm giường, với cái điếu cày lên, nhồi thuốc lào vào nõ điếu, bật lửa, rít. Hút một lúc ba điếu liền, anh mới hạ chân xuống đất, nhẹ nhàng đi tới bàn thờ, đốt đèn lên, thành kính thắp nén nhang.

Đêm mùa xuân tĩnh lặng. Chỉ nghe gió đông đầu mùa xuân thổi vù vù. Ngọn đèn dầu, sau mấy cái nổ “lép bép” cũng sung sức nhồi ngọn lên đỏ lét. Không ai thấy, theo khói hương bay, mặt Chí Lê Cường đang tái tím dần, đôi con mắt đồng thau ốc bươu vàng cố mở ra, và tóc đen cứng như nghìn kim dài dựng ngược.

– Phải giết thêm một con lợn nữa – Chí Lê Cường đập tay xuống bàn thờ quả quyết.

Vợ Chí Lê Cường lúc này cũng không ngủ. Nàng cũng đang thao thức nghe gió đông đầu mùa xuân thổi vù vù, rít qua phên vách. Quen với tính chồng, đã quyết thì làm, nàng không mấy khi to tiếng. Nhưng con lợn đã gần một tạ, công sức chắt bóp bao ngày vất vả bỗng dưng đem cúng cho cả họ, nàng không thể không xót. Nàng thủ thỉ, thuyết phục chồng:

– Em tính, ta cứ đem bán quách nó đi. Con lợn này bụng to, bán thì dôi cân, làm thịt hao lắm. Bán quách nó đi, lên chợ mua cái thủ với vài cân mỡ, vài bó măng, dăm nải chuối xanh, làm vài mâm cúng các cụ là được. Năm ngoái đã làm lớn, năm nay làm thế là vừa. Mình còn khó khăn, các cụ thông cảm.

Lại biết vợ đang tính toán thiệt hơn đồng tiền: lợi thêm vài cân hơi, cũng được chục ngàn đồng, cũng có thể sắm cho con cái một vài bộ quần áo. Nhưng làm thế, e mất tiếng, mất thể diện. Giỗ chạp mà không có lợn réo, gà kêu, không có dao thớt chạm vào nhau kêu chan chát, bát nồi va chạm vào nhau loảng xoảng, thì còn ra cái thể thống gì? Họ Chí to, vài cân mỡ với cái thủ thì ai ăn, ai mời? Hơn nữa, giỗ họ thỉnh thoảng mới làm. Chiều phụ nữ mà để mất tổ tông, họ hàng à? Hơn nữa, từ thời khoán mười đến nay, có đứt bữa nào đâu mà lo.

– Biết là tốn. Mình là trưởng họ, làm khác đi, ai người ta còn phục, còn nể! – Chí Lê Cường dỗ vợ – Họ nhà mình mấy chục năm nay theo văn hóa mới, bỏ giỗ chạp, vài năm nay mới làm lại, có đâu mà nhiều, mà tốn. Nhân giỗ chạp tập trung con em lại để giáo dục tinh thần đoàn kết, kể cũng còn ít. Thời buổi khác rồi, anh em không đoàn kết, dễ lép với thiên hạ lắm.

Không thấy vợ nói gì. Chí Lê Cường chỉ nghe tiếng vạc giường chạm nhau đôm đốp. Nàng đang cựa mình, Chí Lê Cường đưa tay với cái điếu cày, nhồi thuốc, châm lửa, rít.

– Thì tôi cũng tính vậy – Nàng nói – Chứ nhà này có cái gì mà ông chả quyết.

– Thì đã – Chí Lê Cường thông điếu. – Tôi quyết, nhưng lợn, công khó nhọc là của mình. Phải thuận vợ, thuận chồng, ngày mai còn lo.

Cả hai cùng im lặng. Chỉ có gió đông đầu mùa xuân vẫn đập thình thịch ngoài phên vách. Một lúc sau, vợ Chí Lê Cường lại lên tiếng:

– Thầy nó ạ.

– Hử?

– Họ nhà người ta cũng không phải tay vừa đâu. Tôi chỉ sợ lợn mất, rồi tật mang, khổ con, khổ vợ suốt đời.

Chí Lê Cường đắng mồm, cứng lưỡi, vì những lời của vợ gợi những khó khăn triền miên trong gia đình anh. Anh chợt rùng mình. Trời đã nhá nhem sáng.

Con lợn năm trước:

Họ Chí đến giỗ tổ đông đủ hơn lúc nào hết. Họ ngồi trật tự, phát biểu có tổ chức, có nội dung hơn bất kỳ cuộc họp xã viên nào. Nhờ các cụ kể lại, Chí Lê Cường biết rằng, cụ tổ họ Võ Đức không phải là người bản địa. Họ mới đến ngụ cư ở đây từ thời Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa. Và nghe đâu, cụ tổ họ Võ Đức theo Lê Lợi, giữ chức quan coi phần giáo huấn trong quân ngũ, và chết mất xác ở tận đẩu tận đâu. Thế thì nhất định họ Võ Đức không có mộ tổ thật. Mộ tổ họ Võ Đức xây ở gò Cồn chỉ là xây hờ, thờ phụng hờ mà thôi. Trong mộ nhất định không có hài cốt.

Lê Chí Cường mừng rơn. Để giấu niềm vui và chứng tỏ tư cách một tay trưởng họ, Chí Lê Cường cứ thong thả hút hết điếu thuốc lào này đến điếu thuốc lào khác. Khói thuốc lào từ miệng Chí Lê Cường thả ra, tỏa kín cả gian nhà rộng. Cả gian nhà đầy một mùi khen khét, khê khê, nồng nồng. Chí Lê Cường “phản biện” lại các cụ:

– Lấy gì làm bằng chứng, các cụ?

Một cụ già đứng lên thưa:

– Anh cũng là người từng đi chiến trận. Anh biết xác người trong cuộc chiến thất bại như thế nào rồi. Cụ Lê Lợi nhà ta, thuở còn khởi nghĩa, có biết bao nhiêu phen lâm cảnh khốn cùng: “Khi Lương (Linh) Sơn lương hết mấy tuần. Lúc Khôi Huyện quân không một đội”. Lại còn, máu chảy thành sông, tanh hôi vạn dặm. Xác chết nhiều đến nỗi, nước sông Ngựa sông Trâu tắc nghẽn, còn bị quạ tha, diều rỉa, như thế còn phân biệt được nổi ai là xác ai? Lại, người chết trận, kẻ cụt đầu, người cụt chân, tay, lại toàn mặc một kiểu quần áo, mặt lại còn hóa trang, thì rất khó mà xác định? Do thế, họ Võ Đức tài thánh cũng không tìm được cụ tổ chết trận nằm ở đâu. Ấy là chưa nói thời ấy, còn có tin đồn, cụ tổ họ Võ Đức thấy nguy, định phản bội nữa.

Mấy cụ nữa cũng phát biểu với nội dung tương tự và đều khăng khăng rằng, cụ tổ họ Võ Đức mất xác, biệt vô âm tín. Cái Gò Cồn, từ khi cụ tổ họ Chí vùi xác ở đó mới thành thiêng. Họ Võ Đức chơi cái trò láu cá. Biết thời buổi đang chiến tranh, tiến thân bằng văn nghiệp sẽ khó khăn, nên đã lừa lúc con em họ Chí đi vắng, xây đè mộ tổ nhà họ lên mộ tổ nhà họ Chí, nhằm ăn cái lộc thượng võ của họ Chí ta. Và cũng như uất hận của Chí Lê Cường, họ Chí lại đem cái không tiến thân được bằng binh nghiệp của họ nhà mình so sánh với họ Võ Đức. Đến thế thì niềm đắng cay không chỉ có ở những gia đình họ Chí có con em đi bộ đội mà lan ra sôi sục ở mọi gia đình họ Chí. Không khí cuối buổi giỗ tổ, mỗi người một niềm căm tức đã hợp thành ý chí của cả trăm người. Họ Chí nhất quyết, lập tức phải san bằng cái mộ hờ trái phép của họ Võ Đức đi.

Một cụ khác nói:

– Họ ta xưa nay vẫn quen giải quyết công việc bằng vũ lực. Sinh nghệ, tử nghệ, ta không ngán. Nhưng đó là cách của thời trước, của bọn già tôi, cái bọn không có chữ nghĩa gì. Bây giờ, anh Cường, các anh, các chú đều là những người có học, lại đang có dân chủ, đổi mới, ta cứ làm đơn kiện gửi cho các cấp thử xem. Án tại hồ sơ. Gia phả họ ta còn, Đảng và chính quyền cũng phải chấp nhận.

Cả họ Chí xôn xao:

– Được thế thì tốt quá! Họ Võ Đức cũng là họ to, xưa nay có nhiều mưu kế hiểm, có Đảng, chính quyền hỗ trợ, cũng không thừa.

Viết đơn kiện, cả họ Chí đồng tình.

Thắp thêm tuần nhang nữa, cả họ Chí cụm đầu vào thảo đơn kiện. Loay hoay một lúc mới viết được mỗi câu: “Kính gửi Uỷ ban các cấp, từ trung ương đến địa phương!”. Đi vào nội dung, có người muốn phải bắt đầu từ việc kể về lịch sử gò Cồn; có người lại kiên quyết phải bắt đầu từ việc kể tội họ Võ Đức; có người lại sụt sùi khấn vái mà rằng: phải bắt đầu từ nỗi oan ức bị trù dập của họ Chí… Mỗi người một ý. Chẳng ai chịu ai. Qua mấy tiếng đồng hồ mà đơn kiện vẫn chưa hạ được chữ nào cho đúng ý mọi người. Lại còn cãi nhau om sòm. Họ Chí xưa nay chưa từng thảo đơn kiện bao giờ.

Chí Lê Cường là người chấp bút cũng lúng túng. Tuy là đại úy về vườn, nhưng suốt mười năm trong quân ngũ và giữ chức đại đội trưởng, anh cũng chưa hề qua một lớp học tập, huấn luyện sơ cấp nào. Lên tới cấp đại úy là do thành tích trận mạc. Bực với lời đi tiếng lại nhức cả óc, lại trong đầu không bật lên một chữ nghĩa nào khả dĩ có thể làm hài lòng cả họ, Chí Lê Cường bỏ bút, đứng lên:

– Tôi cũng không quen cái nghề cạo giấy, thưa các cụ.

Một cụ nói:

– Anh là người có cấp bậc cao nhất trong họ, lại cũng có học cao nhất, anh không viết thì còn ai viết được.

Chí Lê Cường trồi đôi con mắt đồng thau ốc bươu vàng, nhìn chằm chằm vào anh em, dòng họ. Những khi giáp trận, cái chết kề cái sống, Chí Lê Cường thường có biểu hiện như vậy. Tuy lúc này không phải là chiến trận, cái sống kề cái chết, nhưng lại là biểu hiện của sự bức bối cao độ. Chợt, Chí Lê Cường nhớ tới cái mũi lê nhọn hoắt và đôi tay rắn chắc của anh xỉa vào ngực kẻ thù. Đồng đội có nhiều người bảo anh liều, nhưng anh đã không chết. Khối thằng có tiếng là khôn ngoan, ấy mà lại bỏ xác ở chiến trường. Cứ phải liều, phải tới…

Chí Lê Cường đứng phắt dậy, tay vỗ “bồm bộp” mấy cái có ý ra lệnh cho mọi người trong họ im lặng, rồi nói dứt khoát:

– Dứt khoát không có kiện. Ta tìm lại xương cốt của cụ tổ nhà ta, nếu các cụ có thiêng, sẽ không chấp nhận cách giải quyết theo cái dấu đỏ của chính quyền đâu. Khí chất của cụ tổ nhà ta không đến mức mềm yếu như vậy. Họ Võ Đức, ngày trước xây mộ trên mộ tổ nhà ta, chúng nó có bàn bạc với ai đâu? Bất ngờ, một đêm chúng nó xây xong. Cách làm của chúng nó nhất định được cụ tổ nhà ta chấp nhận. Bởi thế, họ Võ Đức mới giành được lộc của nhà ta. Tôi tính, xưa cụ thế nào thì con cháu ngày nay cứ theo tính của cụ mà làm. Vấn đề cũng phải xong trong một đêm.

Có lý quá! Họ Chí lại một lần nữa tán thành. Và để cho ý kiến của Chí Lê Cường thêm sức nặng, một cụ bổ sung thêm:

– Ấy. Tôi nhớ các cụ kể lại: Cụ tổ nhà ta theo Lê Lợi làm quan tới chức… Tóm lại là rất to. To hơn cụ tổ họ Võ Đức nhiều và được Lê Lợi sủng ái hơn. Thế mà, khi thái bình hưởng lạc, Lê Lợi chỉ tuyên dương công trạng có một lần, cụ nhà ta bỏ phẩm hàm về quê liền. Thế mà Lê Lợi không dám ghép vào tội khi quân. Lê lợi còn mò từ kinh thành về đây để… như bây giờ gọi là xin lỗi. Cụ tổ nhà ta vẫn không thèm tiếp, đánh trâu ra đồng Cồn, rồi uất mà chết ở đó. Cụ dặn, không được kèn trống, hòm ván gì cả, cứ để xương cốt tan vào đồng Cồn. Hồi xưa, khi chưa có cách mạng, có ai dám trồng trọt gì ở trên đó mà có thu hoạch đâu? Anh Cường nói, chỉ có một đêm, tôi tán thành. Như thế mới đúng ý nguyện của cụ.


Phan_1
Phan_2
Phan_3
Phan_4
Phan_5
Phan_7 end
Phan_gioi_thieu
Nếu muốn nhận thông tin bài viết mới của trang thì like ở dưới hoặc truy cập trực tiếp CLICK

TRANG CHỦ
Truyện Teen   Ngôn Tình   Đam Mỹ   Bách Hợp   Mẹo Hay   Trà Sữa   Truyện Tranh   Room Chat   Ảnh Comment   Gà Cảnh   Hình Nền   Thủ Thuật Facebook  
Facebook  Tiện Ích  Xổ Số  Yahoo  Gmail  Dịch  Tải Opera  Đọc Báo 

Lưu địa chỉ wap để tiện truy cập lần sau. Từ khóa tìm kiếm: chatthugian

C-STAT .
Disneyland 1972 Love the old s